Hoàng Su Phì, là một huyện phía Tây của tỉnh Hà Giang, có địa hình đa dạng, tương đối phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi dãy núi cao, trung bình và thấp dần về phía sông theo hướng dòng chảy. Với điều kiện khí hậu thổ nhưỡng thuận lợi trong việc đa dạng hoá cây trồng, phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, nổi bật là những cây chè Shan Tuyết cổ thụ, mang lại sản phẩm chè độc đáo và chất lượng cao.
Với những đặc điểm nổi bật của Chè Shan tuyết cổ thụ Hoàng Su Phì, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì”, tuy nhiên việc quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận (NHCN) này còn nhiều khó khăn và bất cập. Cơ quan quản lý cấp huyện chưa tạo được cơ chế giao quyền sử dụng NHCN, người sản xuất và chế biến chè địa phương cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả lâu dài của việc sử dụng NHCN nên còn chần chừ trong việc đăng ký sử dụng. Đến nay, việc sử dụng NHCN của các đơn vị sản xuất và chế biến chè Shan tuyết còn rất hạn chế. Trước thực trạng trên Viện Kinh tế và Phát triển – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã đề xuất dự án Quản lý và phát triển NHCN “Chè Shan Tuyết Hoàng Su Phì” cho sản phẩm chè shan tuyết huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và đã được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt thực hiện.
Dự án thực hiện với mục tiêu: Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng và phát triển Nhãn NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì”; đánh giá nhu cầu thị trường, người tiêu dùng, khách du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang về các sản phẩm chè Shan tuyết mang NHCN; xây dựng hệ thống công cụ quản lý, phát triển NHCN, bộ công cụ quảng bá, giới thiệu sản phẩm NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì”; nâng cao năng lực của người sản xuất và chế biến chè Shan tuyết trong sử dụng và quản lý NHCN; xây dựng giải pháp quản lý và phát triển NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì” phù hợp với thực trạng sản xuất và thị trường.
Sau 18 tháng triển khai, thực hiện dựa trên thông tin phân tích từ khảo sát đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì cũng như nhu cầu thị trường đối với sản phẩm chè tại địa phương, nhóm dự án đã hỗ trợ tư vấn và xây dựng Quy chế quản lý và sử dụng NHCN và Quy chế cấp và thu hồi NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì. Đây là bộ công cụ quản lý quan trọng, tạo ra hành lang pháp lý cho UBND huyện trong hoạt động theo dõi quản lý, cấp quyền, thu hồi NHCN.
Trong việc khảo sát thực trạng quản lý, sử dụng, phát triển NHCN và người tiêu dùng Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì. Đã tiến hành khảo sát 150 người hộ gia đình sản xuất, chế biến Chè Shan tuyết và các tác nhân thị trường và khảo sát 102 người tiêu dùng là khách du lịch trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì. Thực tế qua khảo sát cho thấy, tỷ lệ các hộ/đơn vị sản xuất chè trên địa bàn huyện biết về NHCN chè Shan tuyết Hoàng Su Phì là rất thấp, trong số những hộ, đơn vị biết về NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì, hơn 50% hộ/đơn vị mong muốn tìm hiểu về NHCN nhưng không biết nguồn thông tin để tiếp cận. Ngoài ra, các hộ/đơn vị chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng NHCN, khiến cho nhiều hộ/đơn vị chế biến gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát thương hiệu cũng như minh chứng chất lượng với người tiêu dùng do sử dụng tên “Hoàng Su Phì” cho các sản phẩm chè trên địa bàn không được quản lý đồng bộ. Nói chung các cơ sở chế biến chưa tập trung vào việc xây dựng bao bì mẫu mã, thương hiệu riêng cho sản phẩm chè, mới có hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ có bao bì nhãn mác và được đóng hộp, đói gói với tên Phìn Hồ Trà là chè xanh được sản xuất từ nguyên liệu tại vùng Phìn Hồ xã Thông Nguyên. Ngay từ ban đầu, hợp tác xã khai thác giá trị vùng nguyên liệu chè Shan tuyết bản địa, sản xuất các sản phẩm chè hữu cơ nhằm tạo sự khác biệt, lợi thế so sánh với các sản phẩm chè trong nước. Từ khi Hợp tác xã Chế biến chè Phìn Hồ thành lập, chè búp tươi của người dân đã có đầu ra ổn định với giá thành cao. Hiện nay, người dân chủ yếu thu hái chè búp tươi để chế biến ra các sản phẩm chè chất lượng cao như bạch trà, hồng trà với giá bán bình quân từ 250 nghìn đến 300 nghìn đồng/kg tùy từng loại. Mỗi năm, sản lượng chè thu hái của thôn được hơn 40 tấn, đem lại nguồn thu lớn và ổn định cho người dân. Từ một thôn vùng cao nghèo khó, đời sống của người dân thôn Phìn Hồ nay đã thay đổi nhờ nghề làm chè, cả thôn không còn hộ đói nghèo, một số hộ chịu khó đã có của ăn của để.
Trong việc đánh giá nhu cầu người tiêu dùng: Kết quả khảo sát cho thấy 50% du khách biết đến chè Shan tuyết Hoàng Su Phì qua các phương tiện truyền thông đại chúng như ti vi, báo chí của địa phương và quốc gia,… Đặc biệt, trong thời gian gần đây, nhiều du khách biết đến chè Shan tuyết thông qua phóng sự, tin bài tham gia trực tiếp và Đêm hội thưởng trà hữu cơ Hà Giang, quy hội đầy đủ các sản phẩm chè thương hiệu của hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ và các sản phẩm mang thương hiệu Hoàng Su Phì,… Về bao bì, mẫu mã của sản phẩm nhìn chung người tiêu dùng và du khách chưa đánh giá cao về tiêu chí thông tin trên bao bì sản phẩm. Có khoảng 30% du khách đánh giá sản phẩm chè Shan tuyết Hoàng Su Phì bắt mắt, dễ nhìn,…
Đối với việc quản lý NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì” đã xây dựng mô hình tổ chức khai thác và Quản lý NHCN trên cơ sở nhu cầu của các đơn vị sản xuất, chế biến và kinh doanh chè trên địa bàn, cũng như thảo luận với các phòng Nội vụ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kinh tế - Hạ tầng của huyện, các đơn vị trên địa bàn đã được tuyên truyền và hiểu rõ hơn về NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì” cũng như vai trò của các tổ chức sản xuất khi tham gia quản lý NHCN để phát triển thương hiệu chè của huyện. Định hướng thành lập Hội Chè huyện Hoàng Su Phì được xác định rõ và quy trình thành lập Hội đảm bảo các quy định theo Nghị định số 45/2010/NĐ-CP. Ngày 27/6/2024, Chủ tịch UBND tỉnh ra Quyết định số 739/QĐ-UBND phê duyệt Điều lệ Hội Chè huyện Hoàng Su Phì, trên cơ sở đó, Hội Chè chính thức đi vào hoạt động có vai trò cùng với các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương tham gia quản lý NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì nhằm phát triển thương hiệu chè của huyện. Qua đó xây dựng quy chế sử dụng NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì” trong Hội.
Đối với việc phát triển NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì”, tiến hành xây dựng các phương tiện quảng bá sản phẩm Chè Shan tuyết mang NHCN: Dự án đã hỗ trợ Hội chè của huyện đăng ký giải pháp xác thực điện tử iCheck, sử dụng kết hợp tem nhãn, mã SMS, mã Serial, mã QR code để thực hiện quản lý chất lượng và quản lý sử dụng nhãn hiệu trong các thành viên của Hội. Hệ thống xác thực điện tử iCheck tích hợp 04 giải pháp: Giải pháp chống giả, giải pháp bảo hành điện tử, giải pháp chống tràn hàng và quảng bá thương hiệu. Mã vạch QR code có thể quét bằng điện thoại di động, thuận tiện cho việc kiểm tra, giám sát cũng như truy xuất nguồn gốc sản phẩm của người tiêu dùng, các đơn vị sản xuất, Hội và cơ quan quản lý địa phương. Bên cạnh đó, dự án cũng hỗ trợ bao bì đựng sản phẩm với nhãn dán sử dụng mã QR chống giả bằng giải pháp xác thực điện tử iCheck cho hội viên của Hội chè Hoàng Su Phì. Ngoài ra, phối hợp với chính quyền địa phương và Hội chè Hoàng Su Phì, dự án cũng đã hỗ trợ thiết kế, sản xuất và xây dựng Pano quảng bá cho NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì và Hội chè huyện Hoàng Su Phì. Cùng với đó, thiết kế chương trình truyền thông quảng bá sản phẩm, phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Giang lập kế hoạch, xây dựng kịch bản, phóng sự truyền hình để quảng bá, truyền thông cho các sản phẩm chè mang NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì, giới thiệu hoạt động sản xuất, chế biến và kinh doanh chè trên địa bàn.
Tăng cường năng lực cho người sản xuất và tác nhân thị trường, trên cơ sở khảo sát vệ hoạt động quản lý, sử dụng và phát triển NHCN Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì, đánh giá trình độ sản xuất, hiểu biết của người sản xuất chè trên địa bàn về NHCN và hoạt động kinh doanh. Từ đó, thiết kế nội dung và chương trình đào tạo phù hợp nhằm nâng cao kiến thức hiểu biết và kỹ năng của cán bộ, người sản xuất trên địa bàn, với các lớp tận huấn đào tạo về quản lý và khai thác NHCN cho các tác nhân, nội dung tập huấn tập trung vào kiến thức về nhãn hiệu, thương hiệu và các mô hình quản lý, khai thác và phát triển nhãn hiệu. Qua chương trình tập huấn giúp học viên hiểu rõ về nhãn hiệu, gồm chức năng, các yêu cầu, các loại nhãn hiệu, sự khác nhau giữa thương hiệu và nhãn hiệu cũng được làm rõ. Ngoài ra, đào tạo về kỹ năng kinh doanh cho cán bộ quản lý tại địa phương, đại diện các đơn vị sản xuất, chế biến và kinh doanh chè trên địa bàn. Chương trình tập huấn tập trung vào kiến thức và kỹ năng kinh doanh nông sản theo tiếp cận marketing mục tiêu, xác định phân khúc thị trường phù hợp đối với từng loại hình sản phẩm. Ngoài ra, học viên cũng được đào tạo và thực hành kỹ năng tính toán chi phí, doanh thu, lợi nhuận, cũng như phương pháp đánh giá các dự án đầu tư kinh doanh, giúp các học viên có kỹ năng tốt hơn trong đánh giá các hoạt động đầu tư kinh doanh chè.
Sau khi đề tài được thực hiện thành công, đã góp phần quảng bá, phát triển NHCN “Chè Shan tuyết Hoàng Su Phì”, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, giúp người tiêu dùng tin rằng khi mua sản phẩm được bảo hộ với nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, giúp họ lựa chọn được sản phẩm chất lượng, an toàn. Bên cạnh đó, các công cụ quản lý được hoàn thiện giúp quản lý việc sử dụng NHCN góp phần nâng cao giá trị kinh tế cho sản phẩm chủ lực của địa phương, bảo vệ lợi ích của người sản xuất và thương hiệu chè Shan tuyết của huyện Hoàng Su Phì, giúp tăng giá trị sản phẩm. Ngoài ra, quản lý và phát triển NHCN giúp đảm bảo quyền và lợi ích cho người sản xuất và tiêu dùng, giúp cho sản phẩm được biết đến rộng rãi trên thị trường, giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người sản xuất của địa phương, người kinh doanh, các công ty vận tải,… Đồng thời với hạt nhân là Hội chè, các kết quả của dự án có thể dễ dàng lan toả tới các đơn vị sản xuất nhỏ lẻ tại địa phương, tuy nhiên để NHCN được sử dụng hiệu quả cần có sự hỗ trợ của các cơ quan liên quan trong việc quảng bá sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước cải tạo, nâng cấp cải tiến công nghệ chế biến chè. Xây dựng nhà máy chế biến chè chất lượng cao với thiết bị công nghệ tiên tiến có công suất lớn (trên 5.000 tấn sản phẩm/năm), thu mua nguyên liệu từ các cơ sở để tinh chế thành sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Xây dựng thêm một số nhà máy chế biến chè xanh, chè đen với thiết bị tiên tiến, mỗi nhà máy có công suất chế biến trên 15 tấn búp tươi/ngày tại các vùng nguyên liệu chè tập trung. Khuyến khích các hộ gia đình đầu tư xây dựng các xưởng sản xuất chế biến chè có công suất từ 3 – 5 tấn búp tươi/ngày ở những vùng sâu, nguyên liệu không tập trung, có đường giao thông đi lại không thuận tiện, làm vệ tinh cung cấp sản phẩm chè sơ chế cho các nhà máy công xuất lớn. Đẩy mạnh đào tạo, thu hút lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao làm chủ được công nghệ sản xuất chế biến chè. Tăng cường xúc tiến thương mại với nhiều hình thức quảng cáo, quảng bá tiếp thị phát triển thị trường ngày càng rộng để có thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài, góp phần vào việc nâng cao uy tín và vị thế của chè Việt Nam trên thị trường quốc tế./.
Nguồn tin: