Ở Việt Nam, hiện có hai công nghệ chính để sản xuất cá rô phi đơn tính đực: (i) Công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính đực sử dụng hormone 17 α - Methyltestosterone (17α - MT); (ii) Công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính đực bằng phương pháp lai khác loài. Cá rô phi đơn tính đực được sử dụng cho nuôi ở nước ta hiện nay chủ yếu được tạo ra bằng phương pháp chuyển đổi giới tính có sử dụng thức ăn trộn hormone 17 α -MT. Công nghệ này dụng trong điều kiện thời tiết ấm cho tỷ lệ giới tính đực là cao.
Miền Bắc nước ta có mùa đông kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau với nền nhiệt thường xuyên xuống thấp (dưới 20 độ C) gây trở ngại cho sản xuất giống sản xuất giống cá rô phi nhất là vào đầu vụ nuôi. Ở nước ta đã có một số nghiên cứu giải pháp giữ và nâng nhiệt để sản xuất rô phi đơn tính đực trong mùa thu đông, song kết quả còn thấp, chưa ổn định và giá thành còn cao. Tác giả Nguyễn Dương Dũng (1999) thử nghiệm sản xuất cá rô phi bột tại vùng nước nóng Duyên Hải, Hưng Hà (Thái Bình). Kết quả cá rô phi sinh sản trong ao đất cho hiệu quả tương đương mà giảm được chi phí đầu tư trang thiết bị dụng cụ, cho nâng nhiệt. Tuy nhiên, không thể mở rộng mô hình do hạn chế nguồn nước nóng. Tác giả Ngô Văn Chiến (2008) đã nghiên cứu nâng cao hiệu quả sản xuất cá rô phi đơn tính đực vụ xuân ở các tỉnh phía Bắc với ba mô hình ghép cá bố mẹ thu trứng trong giai, thu bột trong ao và thu bột trong giai, đã khuyến cáo nên áp dụng phương pháp thu bột thay thế thu trứng đối với vụ xuân hè. Tác giả Nguyễn Thị Hoa (2008) đã nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng protein trong thức ăn đến sinh sản của cá rô phi vằn chọn giống dòng NOVIT4. Kết quả cho thấy hàm lượng protein không ảnh hưởng đến thời điểm sinh sản của cá rô phi nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng trứng và khuyến cáo rằng nên sử dụng thức ăn có hàm lượng protein >25% cho nuôi vỗ và sản xuất cá rô phi đơn tính đực. Ttác giả Trần Văn Cường (2012) đã thử nghiệm sử dụng nước giếng khoan nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cá rô phi đơn tính đực vụ thu đông tại trại cá Hòa Bình (Thái Bình). Kết quả cho thấy hiệu quả sản xuất cá rô phi đơn tính đực tại các ao có sử dụng nước giếng khoan cao hơn hẳn các ao không sử dụng nước giếng khoan. Một số nghiên cứu về sử dụng lò than nâng nhiệt trong sản xuất giống thủy sản cũng đã được nghiên cứu tại Trung Quốc tuy nhiên các thông tin về thiết kế, quy trình công nghệ và địa chỉ cơ sở áp dụng hầu như không được công bố.
Vấn đề đặt ra cần giải quyết là tìm giải pháp giữ nhiệt và nâng nhiệt để sản xuất rô phi đơn tính đực trong mùa thu đông với chi phí hợp lý, lưu giữ cá rô phi qua đông, ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau để nâng cao chất lượng cá bố mẹ nuôi vỗ. Xuất phát từ thực tiễn trên, chủ nhiệm đề tài ThS. Ngô Phú Thỏa cũng nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 thực hiện đề tài “Nghiên cứu sản xuất giống rô phi đơn tính đực quy mô hàng hoá trong điều kiện nhiệt độ thấp phía Bắc” với mục tiêu: Chủ động công nghệ sản xuất giống cá rô phi đơn tính trong điều kiện nhiệt độ thấp tại các tỉnh phía Bắc; mục tiêu cụ thể (i) Xây dựng được dự thảo quy trình công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính vụ Thu - Đông Xuân (tháng 10 đến tháng 3) với các chỉ tiêu kỹ thuật: tỷ lệ cá đẻ: 70%, tỷ lệ cá sống (cá bột 21 ngày tuổi): 60%, tỷ lệ cá đực: ≥ 95%, tỷ lệ sống của cá đơn tính đực lưu qua đông: ≥ 80%, (ii) Xây dựng được bản dự thảo thiết kế trại sản xuất đạt năng suất 10 triệu cá đơn tính (21 ngày tuổi)/vụ.
Đề tài đã cơ bản hoàn thành đầy đủ sản phẩm bao gồm cá rô phi bột, cá đơn tính 21 ngày tuổi và cá sau lưu đông đảm bảo về số lượng, chủng loại và chất lượng, riêng số lượng cá bột, cá 21 ngày tuổi và cá lưu đông đều vượt so với hợp đồng; xây dựng được 01 dự thảo thiết kế trại sản xuất đạt công suất 10 triệu con/vụ; 01 dự thảo quy trình lưu giữ cá qua đông đạt hiệu quả cao và 01 dự thảo quy trình công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính vụ Thu - Đông Xuân (tháng 10 đến tháng 3) với các chỉ tiêu kỹ thuật: tỷ lệ cá đẻ: 70%, tỷ lệ sống của cá bột 21 ngày tuổi: 60%, tỷ lệ cá đực ≥95% và tỷ lệ sống của cá đơn tính đực lưu qua đông ≥ 80%.
Trong khuôn khổ đề tài do thời gian có hạn nên mới triển khai được ở quy mô nhỏ. Đề nghị cho thực hiện Dự án SXTN để hoàn thiện quy trình và chuyển giao cho 7 các trạm trại nhằm đảm bảo cung cấp và đáp ứng được nhu cầu về con giống đầu vụ nuôi ở các tỉnh miền Bắc nước ta.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20705/2022) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn tin: