Ngày đăng: 13/03/2025 / Lượt xem: 152
Xem với cỡ chữ

Nghiên cứu chọn tạo dòng lợn đực cuối cùng dòng lợn nái tổng hợp và xây dựng được các quy trình công nghệ chăn nuôi lợn để đạt năng suất và chất lượng cao phục vụ chăn nuôi tại các tỉnh phía Nam

Vài năm gần đây, các nguồn gen có tiềm năng di truyền cao như Yorkshire, Landrace, Duroc đã được nhập khẩu từ Đan Mạch, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Hà Lan, Pháp, Đài Loan. Đây là những nguồn gen có tiềm năng di truyền rất cao cả về sinh sản, sinh trưởng và chất lượng thịt. Tuy vậy, trong điều kiện chuồng trại, quản lý dịch bệnh, khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam, việc khai thác tiềm năng của các giống lợn này vẫn còn nhiều hạn chế vì mỗi nguồn gen nhập khẩu này đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Để khai thác hiệu quả các nguồn gen này phục vụ phát triển chăn nuôi công nghiệp ở Việt Nam hiện nay, công tác nghiên cứu lai tạo, phối hợp các đặc điểm tốt của từng nguồn gen và chọn lọc ổn định các đặc tính di truyền tốt trong môi trường khí hậu nóng ở Việt Nam là thực sự cần thiết. Mặt khác, để phù hợp với tiềm năng sinh sản cao của đàn nái giống nhập nội và con lai đã được tạo ra trong quá trình nhân giống, cần thiết phải nghiên cứu và các khuyến cáo mới về tiêu chuẩn, khẩu phần ăn và quy trình nuôi dưỡng phù hợp cho đàn giống cao sản, sao cho có thể phát huy cao nhất tiềm năng di truyền của đàn giống.


Mô hình nuôi heo công nghệ cao ngày càng được quan tâm?

Từ thực tế trên, TS. Nguyễn Hữu Tỉnh đã phối hợp với các cộng sự tại Viện Chăn nuôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo dòng lợn đực cuối cùng dòng lợn nái tổng hợp và xây dựng được các quy trình công nghệ chăn nuôi lợn để đạt năng suất và chất lượng cao phục vụ chăn nuôi tại các tỉnh phía Nam” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2021.

Đề tài hướng đến thực hiện mục tiêu chọn tạo được dòng lợn nái ông bà, tổ hợp lợn nái bố mẹ và lợn đực cuối cùng có năng suất sinh sản, sinh trưởng cao từ nguồn gen nhập khẩu để sản xuất lợn thương phẩm có khả năng sinh trưởng và tỷ lệ nạc cao, hệ số tiêu tốn thức ăn thấp phục vụ chăn nuôi tại các tỉnh phía Nam.

Đề tài đã thu được các kết quả như sau:

(1) Hai dòng nái SS1 và SS2 ở thế hệ 3 đã cho thấy tính ổn định cả về di truyền và năng suất; số con cai sữa/nái/năm đạt 28,3-28,5 con, tăng 19,2% ở dòng nái SS1 và 19,9% ở dòng nái SS2, khi so sánh với thế hệ xuất phát chưa chọn lọc tại các cơ sở giống.

(2) Hai tổ hợp nái bố mẹ SS12 và SS21, được tạo ra từ phép lai chéo giữa hai dòng SS1 và SS2 ở thế hệ 3 không có sự khác biệt giữa hai tổ hợp, số con cai sữa/nái/năm đạt 29,4 - 29,6 con.

(3) Dòng đực cuối TS3 ở thế hệ 3 đã cho thấy tính ổn định cả về di truyền và các tính trạng năng suất; So với thế hệ xuất phát chưa chọn lọc tại các cơ sở giống, tốc độ sinh trưởng cao, hơn 10,6% (đạt 942g/ngày), dày mỡ lưng cải thiện 10,9% (đạt 10,7mm), dày thăn thịt cao hơn 5,2% (đạt 63,0mm), tuổi đạt 100kg cải thiện 11,7% (đạt 144,5 ngày), hệ số tiêu tốn thức ăn cải thiện 5,4% (đạt 2,46).

(4) Tổ hợp thương phẩm lai giữa ba dòng TS3, SS1 và SS2 ở thế hệ 3, đều đạt và vượt so với mục tiêu đề tài: Tuổi đạt 100kg trung bình giữa các cơ sở giống 148,9 ngày; Tỷ lệ nạc 61,4%; Hệ số tiêu tốn thức ăn 2,39 kgTA/kgTT.

(5) Khẩu phần tối ưu cho lợn ông bà (SS1 và SS2), giai đoạn sau cai sữa, tỷ lệ protein, SID Lys, Met, Met+Cys, Thr, Trp phù hợp lần lượt là 19; 1,3; 0,43; 0,74; 0,85 và 0,29%.  Khẩu phần tối ưu cho nái bố mẹ (SS12 và SS21), giai đoạn 20-60kg mật độ năng lượng trao đổi 3.250 Kcal ME và 0,85% SID Lysine; giai đoạn 60-140 kg mật độ năng lượng trao đổi 3.200 Kcal ME và 0,70% SID Lysine…

(7) Mật độ dinh dưỡng trong khẩu phần tối ưu cho đực giống (TS3): 3.100 kcal ME/kg và 0,8% SID Lys, tương ứng với mức ăn bình quân ngày 9.134 kcalME/con và 23,58 g SID Lys/con và tỷ lệ thích hợp giữa các axit amin tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn giới hạn quan trọng nhất gồm các mức methionine là 60 và 70% so với lysin, threonine ở các mức 60% và 70% so với lysine cho chất lượng tinh trung tốt nhất.

Việc sử dụng các nguồn nguyên liệu đặc trưng cho từng địa phương ở khu vực phía Nam để xây dựng khẩu phần cho lợn nái sinh sản (SS1 và SS2), đều cho các chỉ tiêu năng suất tương đương với thức ăn hỗn hợp có uy tín trên thị trường, nhưng giá thành thức ăn thấp hơn và tăng hiệu quả chăn nuôi từ 5-7%.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20571/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.

Nguồn tin: https://www.vista.gov.vn/

Lịch công tác sokhcnhagiang mail dacsanhagiang sti.vista.gov thuvienkhoahochg video photo

Đang tải thống kê...